CôngThương – Đa dạng phương án
Theo A0, phương án thứ nhất, được coi là phương án cơ sở với dự tính điện thương phẩm tăng 11,5%, tần suất nước về 65%. Với phương án này, các nguồn tuabin khí và nhiệt điện than miền Nam được huy động cao trong cả năm, đồng thời phải huy động điện chạy dầu từ tháng 4/2015. Trong trường hợp Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 vận hành không ổn định như dự kiến sẽ phải huy động các nguồn nhiệt điện dầu cao hơn. Cũng theo phương án này, trong năm sẽ có đợt ngừng cấp khí Cà Mau, Lô 06.1, Nam Côn Sơn khoảng 18 ngày để sửa chữa định kỳ, do đó sẽ phải huy động nhiệt điện dầu khoảng 153 triệu kWh.
Ở miền Bắc, do được bổ sung thêm nhiều tổ máy nhiệt điện than mới như Quảng Ninh 2, Hải Phòng 2, Nghi Sơn 1, Vũng Áng 1, Mông Dương 2… nên có dự phòng công suất và sản lượng tại chỗ khá lớn. Tổng sản lượng nhiệt điện dự phòng các tháng mùa khô tại miền Bắc là 3,6 tỷ kWh. Số giờ vận hành tương đương trong mùa khô của các nguồn than miền Bắc chỉ khoảng 65% và cả năm xấp xỉ 60%.
Về truyền tải, xu hướng vẫn từ miền Bắc và miền Trung vào miền Nam. Sản lượng truyền tải cả năm dự kiến theo chiều Bắc – Nam là 10,426 tỷ kWh, tăng 42,7% so với năm 2014 (ước năm 2014 là 7,306 tỷ kWh); từ miền Trung vào miền Nam là 17,154 tỷ kWh, tăng hơn 25% so với cùng kỳ 2014 (năm 2014 là 13,713 tỷ kWh).
Phương án thứ hai được tính toán với mức điện thương phẩm tăng 11,5%, tần suất nước về là 75%. So với phương án cơ sở, phương án này có sản lượng thủy điện ít hơn trong mùa khô 1,062 tỷ kWh điện, cả năm ít hơn 4,192 tỷ kWh.
Phương án thứ ba, điện thương phẩm tăng 13%, tần suất nước về các hồ thủy điện 65%. So với phương án cơ sở, phương án này có phụ tải cao hơn 1,044 tỷ kWh trong mùa khô và cao hơn 2,164 tỷ kWh cả năm, trong đó phụ tải miền Nam cao hơn là 515/1059 triệu kWh.
Dự báo năm 2015, sẽ là năm khó khăn khi tần suất nước về thấp, các dự án cấp điện cho miền Nam có nguy cơ chậm tiến độ. Tuy nhiên, cả 4 phương án tính toán đều bảo đảm cung cấp điện đáp ứng đủ nhu cầu điện cho năm 2015. |
Phương án thứ tư, điện thương phẩm tăng 13%, tần suất nước về 75%. Đây là phương án có điều kiện đầu vào khó khăn nhất trong 4 phương án. So với phương án cơ sở, phương án này có phụ tải cao hơn 1,044 tỷ kWh trong mùa khô và cao hơn 2,164 tỷ kWh cả năm, đồng thời sản lượng thủy điện cũng thấp hơn phương án cơ sở là 1.062/4.192 triệu kWh mùa khô/cả năm.
Bảo đảm đủ nguồn cung
Theo A0, trong trường hợp kịch bản xấu nhất là phụ tải tăng cao, lượng nước về thấp thì cần huy động ở mức cao nhiệt điện dầu khoảng 579 triệu kWh trong mùa khô, 747 triệu kWh cả năm. Truyền tải trên các đường dây 500 kV luôn ở mức cao trong cả năm. Việc phải liên tục truyền tải với công suất và sản lượng cao sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn trong vận hành.
A0 nhận định, trong năm tới, việc nhập khẩu điện từ Trung Quốc sẽ ở mức tối thiểu. Sản lượng điện dự phòng ở miền Bắc tương đối cao. Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 sẽ được huy động cao trong cả năm để đáp ứng nhu cầu phụ tải miền Nam. Sản lượng tối thiểu phải phát trong mùa khô năm 2015 đạt xấp xỉ 2,51 tỷ kWh.