Ưu tiên hoàn thiện cơ chế, chính sách cho công nghiệp hỗ trợ
Đó là ý kiến đề xuất của các đại biểu tại hội thảo về các giải pháp thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ được tổ chức hôm qua 26-8. Các ông: Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Thành Long, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì và chỉ đạo hội thảo.
|
Các doanh nghiệp Nhật Bản tìm hiểu mô hình dạy nghề cắt gọt kim loại phục vụ cho ngành công nghiệp hỗ trợ tại trường Cao đẳng Nghề BR-VT. Ảnh: PHƯƠNG THẢO |
Công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa phát triển
Báo cáo của ngành Công thương tại hội thảo cho thấy, tính đến nay, trên địa bàn tỉnh có 85 dự án, trong đó có 62 dự án cơ khí có liên quan đến lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) với tổng vốn đăng ký khoảng 1,3 tỷ USD. Trong số này có 55 dự án đầu tư nước ngoài và 30 dự án đầu tư trong nước. Ngoài ra còn có khoảng 250 cơ sở sản xuất, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực gia công cơ khí. Hiện trạng của ngành CNHT trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhỏ bé và hầu như chưa phát triển. Sự liên kết giữa DN CNHT với các DN sản xuất lắp ráp còn yếu, thiếu sự phối hợp giữa nhà lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ, giữa các DN ngành CNHT với nhau…
Bà Trần Thị Hường, nguyên Giám đốc Sở Công thương cho biết, BR-VT là tỉnh đầu tiên trong cả nước xây dựng quy hoạch phát triển CNHT. Thời gian qua, trong quy hoạch phát triển CNHT của tỉnh cũng xác định 3 lĩnh vực phát triển CNHT là cơ khí, điện – điện tử và hóa chất. Đối với lĩnh vực CNHT ngành cơ khí sẽ phục vụ cho ngành công nghiệp đóng tàu, ngành dịch vụ khai thác và chế biến dầu khí, ngành chế tạo sản phẩm tiêu dùng. Quy hoạch cũng đề ra các giải pháp và tổ chức thực hiện, xây dựng chương trình riêng để tập trung phát triển CNHT. Hàng năm cần nguồn kinh phí khoảng 5 tỷ đồng để thực hiện các nội dung như: Xúc tiến đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài vào CNHT, phát triển hệ thống DN nội địa, đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu phục vụ phát triển CNHT, hỗ trợ thông tin thị trường, liên kết DN… Từ năm 2011-2014, tỉnh đã tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư Nhật Bản, ký kết một số văn bản ghi nhớ hợp tác với một số địa phương của Nhật Bản như: tỉnh Hyogo, TP. Kawasaki, TP. Sanjo. Đồng thời tỉnh tiến hành đào tạo 1.000 công nhân kỹ thuật cho ngành CNHT. “Tuy nhiên, đến nay ngành CNHT cả nước nói chung, của tỉnh nói riêng vẫn loay hoay chưa phát triển được. Nguyên nhân là do chưa có chính sách đủ mạnh để giúp DN đầu tư phát triển CNHT. Vì vậy, chưa tạo được lòng tin của nhà đầu tư để họ có thể mạnh dạn đầu tư vào các ngành CNHT” – bà Trần Thị Hường nói.
Một hạn chế lớn cản trở đến quá trình thu hút đầu tư từ các DN Nhật Bản được các đại biểu đề cập đến là tiến độ đầu tư hạ tầng các KCN chuyên sâu Phú Mỹ 3, KCN Đá Bạc còn quá chậm. Đây là lý do khiến các nhà đầu tư Nhật Bản chuyển hướng đầu tư sang các KCN đã hoàn thiện hạ tầng ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương.
Chính sách cho CNHT chưa đủ mạnh
Phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự phát triển ì ạch của ngành CNHT, các đại biểu tham dự hội thảo cho rằng, vẫn còn nhiều vướng mắc về khung ưu đãi, cơ chế triển khai hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước cho các DN CNHT. Tiến sĩ Lê Ngọc Trân, Khoa Điện – Điện tử trường Đại học BR-VT cho rằng, ở các nước tiên tiến như Hàn Quốc, Nhật Bản, nền công nghiệp chủ đạo mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các DN CNHT. Do đó chính sách, cơ chế ưu đãi được tập trung cho các DN CNHT, thậm chí DN bị phá sản cũng được nhà nước bảo hộ. Tuy nhiên ở nước ta, các DN CNHT đều tự thân vận động và hầu như không được hưởng một cơ chế bảo hộ nào. Thời gian qua, việc thực thi Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển ngành CNHT còn gặp nhiều khó khăn do chưa quy định rõ danh mục sản phẩm được ưu tiên phát triển, thiếu các định chế trung gian để hỗ trợ các DN. Cụ thể như chính sách phát triển các khu ươm tạo công nghệ, hỗ trợ vốn vay với lãi suất thấp, các ưu đãi về giá thuê đất, thuế… Theo Tiến sĩ Lê Ngọc Trân, để đẩy mạnh phát triển CNHT trên địa bàn, BR-VT cần xác định công nghiệp mũi nhọn tương ứng với thế mạnh của từng vùng và tập trung phát triển các DN CNHT để sản xuất phụ kiện phục vụ cho ngành công nghiệp mũi nhọn này. Bên cạnh đó, tỉnh cần quan tâm thành lập khu nghiên cứu công nghệ cao, liên kết với trường đại học tại địa phương hoặc các Viện chuyên ngành với vai trò hỗ trợ đầu vào cũng như đầu ra cho sản phẩm CNHT; mặt khác thành lập ban quản lý để truyền tải các chính sách của Nhà nước và tìm hiểu các khó khăn của DN CNHT, từ đó kịp thời hỗ trợ, tạo sự kết nối giữa các DN trong cùng chuỗi cung ứng.
Đề xuất các giải pháp phát triển ngành CNHT, các đại biểu cho rằng, tỉnh cần có các chính sách hỗ trợ tài chính hiệu quả cho DN. Cụ thể, Quỹ Đầu tư phát triển của tỉnh nên có chính sách vay vốn đầu tư riêng cho CNHT với lãi suất ưu đãi từ 1-3%/năm (mỗi năm dành khoảng 200 tỷ đồng cho ngành CNHT, mỗi DN đầu tư CNHT có thể vay từ 10-20 tỷ đồng…). Bên cạnh đó, cần có chính sách miễn thuế giá trị gia tăng đầu vào với các sản phẩm CNHT; ổn định lãi suất, miễn giảm tiền thuê đất; khuyến khích DN có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho DN trong nước tham gia sâu vào chuỗi cung ứng… Theo ông Nguyễn Đình Trung, Phó Giám đốc Sở KH-ĐT, ngoài các chính sách từ địa phương, Trung ương cần sớm ban hành một số cơ chế, chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích DN đầu tư vào CNHT. Cụ thể như sớm ban hành Nghị định về phát triển CNHT, thành lập Quỹ phát triển CNHT nhằm hỗ trợ vốn cho DN nhỏ và vừa gặp khó khăn về nguồn vốn…
Theo Báo BR-VT
ÔNG NGUYỄN HỒNG LĨNH, ỦY VIÊN DỰ KHUYẾT TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, PHÓ BÍ THƯ THƯỜNG TRỰC TỈNH ỦY, CHỦ TỊCH HĐND TỈNH: Phải quyết liệt hơn trong phát triển ngành CNHT CNHT có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước. BR-VT là một tỉnh công nghiệp, vì vậy, việc ưu tiên phát triển CNHT phải hết sức quyết liệt, đòi hỏi sự chỉ đạo đồng bộ, đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược hơn, đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI. Trong đó, lưu ý các vấn đề như ưu tiên đẩy nhanh tiến độ hạ tầng KCN chuyên sâu, các chính sách hỗ trợ, lựa chọn các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư… Sau hội thảo này, lãnh đạo Sở Công thương cần có sự bàn thảo, đề xuất các giải pháp cụ thể để tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh để có các hoạch định phát triển ngành CNHT trong giai đoạn tới. ÔNG LÊ QUANG HIẾU, PHÓ GIÁM ĐỐC CÔNG TY TNHH MTV DỊCH VỤ CƠ KHÍ HÀNG HẢI PTSC: Cần có sự hỗ trợ chính sách vĩ vô từ các cơ quan nhà nước Các DN nhỏ và vừa rất muốn tham gia vào ngành CNHT để có thể tự sản xuất và cung ứng các thiết bị, vật tư. Qua đó góp phần gia tăng tỷ trọng nội địa hóa, tăng tính chủ động khi thực hiện các dự án, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, thậm chí, tiến tới xuất khẩu. Tuy nhiên, để làm được điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư mạnh vào nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển sản phẩm, hệ thống quản lý, các chứng chỉ cần thiết, đầu tư nguồn nhân lực trình độ cao và máy móc công nghệ cao. Bên cạnh đó, các DN cũng cần sự hỗ trợ chính sách vĩ mô từ các cơ quan nhà nước như thuế, bảo hộ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường ra nước ngoài để cân bằng sản xuất, tăng nguồn thu. ÔNG NGUYỄN VĂN TUYÊN, PHÓ GIÁM ĐỐC CÔNG TY TNHH VIETUBES, KCN ĐÔNG XUYÊN (TP. VŨNG TÀU): Tận dụng tối đa năng lực để hợp tác cùng phát triển Để phát triển ngành CNHT như mục tiêu đã đặt ra, Sở Công thương phải là đầu mối tư vấn cho chính quyền xây dựng chiến lược đầu tư CNHT trên cơ sở các thế mạnh của địa phương như: dầu khí, đánh bắt chế biến hải sản, du lịch, vận tải biển, cảng biển, đóng tàu… Cần có các chính sách phù hợp để khuyến khích đầu tư, bảo vệ sản xuất, dịch vụ trong nước, đồng thời, hỗ trợ tối đa cho DN mạnh dạn đầu tư thiết bị máy móc và công nghệ hiện đại. Mặt khác, chính quyền địa phương phải là cầu nối để các DN trong tỉnh tận dụng tối đa về năng lực để hợp tác cùng phát triển. Hiện tại, Công ty TNHH Vietubes mới chỉ vận hành gần 50% công suất và năng lực hiện có. Vì vậy, chúng tôi rất muốn hợp tác với các DN trong nước, trong tỉnh để tận dụng tối đa năng lực về thiết bị, mặt bằng, nhân lực nhằm cung cấp các dịch vụ của DN. |
CÁC TIN TỨC KHÁC CÙNG CHUYÊN MỤC: